Kháng oxi hóa là gì? Các công bố khoa học về Kháng oxi hóa

Kháng oxi hóa là quá trình ngăn chặn sự oxi hóa của phân tử khác, bảo vệ tế bào khỏi gốc tự do gây hại. Các chất kháng oxi hóa như Vitamin C, Vitamin E, Beta-Caroten, và Selenium ngăn phản ứng dây chuyền của gốc tự do, bảo vệ tế bào, protein và DNA. Chúng hỗ trợ quá trình lão hóa, giảm nguy cơ bệnh mãn tính như bệnh tim, ung thư, Alzheimer. Nguồn thực phẩm giàu chất này gồm trái cây, rau củ, hạt, quả hạch, trà và cà phê, giúp nâng cao sức khỏe tổng thể.

Kháng Oxi Hóa là gì?

Kháng oxi hóa là quá trình mà các chất có khả năng ngăn chặn hoặc làm chậm sự oxi hóa của các phân tử khác. Trong cơ thể sinh vật, các chất kháng oxi hóa góp phần bảo vệ tế bào khỏi tác hại từ các gốc tự do, từ đó giảm thiểu sự hư hại và các bệnh lý liên quan.

Cơ chế hoạt động của chất kháng oxi hóa

Cơ chế hoạt động chính của các chất kháng oxi hóa là bằng cách ngăn chặn phản ứng dây chuyền do các gốc tự do gây ra. Gốc tự do là các phân tử rất hoạt động, có thể gây tổn thương cho tế bào, protein, và DNA của cơ thể. Các chất kháng oxi hóa có khả năng dâng tặng một điện tử để vô hiệu hóa gốc tự do mà không trở thành gốc tự do mới, nhờ đó giúp bảo vệ cơ thể khỏi quá trình phá hủy này.

Các loại chất kháng oxi hóa phổ biến

Có hàng ngàn hợp chất có khả năng kháng oxi hóa, đa dạng từ các vitamin, khoáng chất đến các hợp chất thực vật. Một số chất kháng oxi hóa phổ biến bao gồm:

  • Vitamin C: Một trong những chất kháng oxi hóa hòa tan trong nước mạnh mẽ nhất, bảo vệ chất béo, protein, và DNA bên trong tế bào.
  • Vitamin E: Một chất kháng oxi hóa hòa tan trong chất béo quan trọng, giúp bảo vệ màng tế bào khỏi bị oxi hóa.
  • Beta-Caroten: Một loại carotenoid, là tiền chất của vitamin A, giúp bảo vệ tế bào khỏi tác hại của ánh sáng xanh.
  • Selenium: Một khoáng chất quan trọng, hoạt động cùng với enzyme kháng oxi hóa để bảo vệ cơ thể.

Tác dụng của chất kháng oxi hóa đối với sức khỏe

Chất kháng oxi hóa không chỉ giúp bảo vệ cơ thể khỏi tác hại của gốc tự do mà còn hỗ trợ quá trình lão hóa tự nhiên, giảm nguy cơ mắc phải các bệnh mãn tính như bệnh tim mạch, ung thư, và các bệnh thoái hóa thần kinh như Alzheimer. Bổ sung chất kháng oxi hóa qua chế độ ăn uống cân bằng được coi là một trong những chiến lược hiệu quả để nâng cao sức khỏe tổng thể.

Nguồn thực phẩm giàu chất kháng oxi hóa

Để cung cấp đủ chất kháng oxi hóa cho cơ thể, nên tăng cường tiêu thụ các thực phẩm như:

  • Trái cây: Các loại quả như việt quất, dâu tây, kiwi, và cam chứa nhiều vitamin C và các hợp chất flavonoid.
  • Rau củ: Cà chua, rau chân vịt, bông cải xanh, và cà rốt là nguồn giàu beta-caroten, Vitamin C và E.
  • Hạt và quả hạch: Hạt hạnh nhân, hạt điều, và quả óc chó chứa nhiều vitamin E.
  • Trà và cà phê: Cả hai đều chứa nhiều polyphenol, một nhóm hợp chất kháng oxi hóa mạnh.

Kết luận

Kháng oxi hóa đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ sức khỏe và chống lại các bệnh lý mãn tính. Bằng cách duy trì chế độ ăn giàu chất kháng oxi hóa, chúng ta có thể tăng cường hệ miễn dịch và duy trì một cơ thể khỏe mạnh.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "kháng oxi hóa":

Miễn Dịch Thụ Động Chống Lại Cachectin/Yếu Tố Hoại Tử Khối U Bảo Vệ Chuột Khỏi Tác Động Gây Tử Vong Của Nội Độc Tố Dịch bởi AI
American Association for the Advancement of Science (AAAS) - Tập 229 Số 4716 - Trang 869-871 - 1985

\n Một loại kháng huyết thanh polyclonal rất cụ thể từ thỏ, nhắm vào cachectin/yếu tố hoại tử khối u (TNF) ở chuột, đã được chuẩn bị. Khi chuột BALB/c được miễn dịch thụ động bằng kháng huyết thanh hoặc globulin miễn dịch tinh khiết, chúng được bảo vệ khỏi tác động gây tử vong của nội độc tố lipopolysaccharide do Escherichia coli sản xuất. Tác dụng phòng ngừa phụ thuộc vào liều lượng và hiệu quả nhất khi kháng huyết thanh được tiêm trước khi tiêm nội độc tố. Kháng huyết thanh chống lại cachectin/TNF không làm giảm phản ứng sốt của động vật đã được xử lý bằng nội độc tố, và liều lượng rất cao của nội độc tố có thể vượt qua tác dụng bảo vệ. Liều tử vong trung bình của nội độc tố ở chuột được xử lý trước bằng 50 microlít kháng huyết thanh đặc biệt cao hơn khoảng 2,5 lần so với liều tử vong trung bình cho các chuột đối chứng được tiêm huyết thanh không miễn dịch. Dữ liệu cho thấy rằng cachectin/TNF là một trong những trung gian chính của tác động gây tử vong của nội độc tố.\n

#cachectin #yếu tố hoại tử khối u #miễn dịch thụ động #kháng huyết thanh #nội độc tố #E. coli #hiệu quả bảo vệ #động vật gặm nhấm #liều gây tử vong #trung gian hóa học.
Kháng thể IgM người SAM-6 gây ra hiện tượng tự hủy tế bào đặc hiệu cho khối u với lipoprotein mật độ thấp oxi hóa Dịch bởi AI
Molecular Cancer Therapeutics - Tập 6 Số 1 - Trang 326-333 - 2007
Tóm tắt

Chất béo là thành phần thiết yếu cho các tế bào bình thường và ác tính trong quá trình phát triển và biệt hóa. Sự lưu thông này được điều chỉnh một cách nghiêm ngặt vì việc tiếp nhận và tích lũy không kiểm soát có thể gây độc cho tế bào và dẫn đến hiện tượng lipoapoptosis: tự hủy tế bào do chất béo. Kháng thể đơn dòng SAM-6 của người gắn vào một thụ thể trên bề mặt tế bào của các tế bào ác tính và với lipoprotein mật độ thấp (LDL) đã được oxi hóa. SAM-6 kích thích sự tích lũy lipid bên trong tế bào, bằng cách cung cấp quá mức cho các tế bào ác tính với LDL đã bị oxi hóa, thông qua cơ chế nội bào bị trung gian bởi thụ thể. Các tế bào được điều trị tích lũy vượt mức các kho lipid chứa ester cholesterol và triglyceride. Sự tích lũy lipid quá mức này là đặc hiệu cho khối u; các tế bào không ác tính không gắn kết với kháng thể cũng như không thu thập lipid sau khi ủ. Bởi vì đối với cả hai hình thức của sự tự hủy tế bào, phụ thuộc vào miền chết (“ngoại sinh”) và không phụ thuộc (“nội sinh”), việc kích hoạt các protease là rất quan trọng, chúng tôi cũng đã điều tra con đường này một cách chi tiết hơn. Đã phát hiện rằng ngay sau khi nội hóa phức hợp kháng thể/LDL đã bị oxi hóa/thụ thể và sự hình thành các kho lipid, cytochrome c được giải phóng từ ti thể. Tiếp theo, caspase-8 và caspase-9 (caspases khởi đầu) và caspase-3 và caspase-6 (caspases hiệu quả) được kích hoạt. Cơ chế kích hoạt của ti thể (ví dụ: bởi các axit béo tự do) đang được điều tra. Tuy nhiên, dữ liệu hiện tại cho thấy rằng kháng thể SAM-6 kích thích một hình thức tự hủy tế bào kiểu nội sinh bằng cách cung cấp quá mức lipid cho các tế bào ác tính. [Mol Cancer Ther 2007;6(1):326–33]

KHẢ NĂNG KHÁNG OXY HÓA, ỨC CHẾ ENZYME α-AMYLASE VÀ α-GLUCOSIDASE CỦA CAO CHIẾT TỪ LÁ CÂY LỘC VỪNG (Barringtonia acutangula)
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp - Tập 6 Số 2 - Trang 2983-2993 - 2022
Trong nghiên cứu này, khả năng ức chế hoạt động enzyme α-amylase, α-glucosidase và kháng oxy hóa của lá cây lộc vừng được nghiên cứu in vitro. Lá cây lộc vừng được ly trích bằng phương pháp soxhlet bằng các dung môi nước, ethanol 70% và methanol 70%. Hàm lượng phenolic, flavonoid, khả năng ức chế α-amylase, α-glucosidase và kháng oxy hóa được xác định bằng việc đo quang phổ ở bước sóng 510 nm, 765 nm, 660 nm, 405 nm và 517 nm. Kết quả, độ ẩm đạt 70,64% và hiệu suất chiết của lá cây lộc vừng đạt 9,78-13,13%. Lá cây lộc vừng được xác định có chứa các hợp chất alkaloid, terpenoid, flavonoid, steroid, tannin và phenol. Hàm lượng polyphenol của cao chiết lá cây lộc vừng lần lượt là 70,06 (nước); 77,94 (ethanol); 85,23 (methanol) mg GE/g cao chiết. Hàm lượng flavonoid của cao chiết lá cây lộc vừng lần lượt là 88,91 (nước); 109,65 (ethanol); 125,56 (methanol) mg quercetin/g cao chiết. Cao chiết lá cây lộc vừng có khả năng kháng oxy hóa bằng DPPH với giá trị IC50 lần lượt là 121,16 µg/mL (nước); 109,60 µg/mL (ethanol) và 98,42 µg/mL (methanol). Cao chiết lá cây lộc vừng còn có khả năng ức chế α-amylase với giá trị IC50 lần lượt là 145,31 µg/mL (nước); 131,72 µg/mL (ethanol) và 120,62 µg/mL (methanol). Cao chiết lá cây lộc vừng có khả năng ức chế α-glucosidase với giá trị IC50 lần lượt là 197,6 µg/mL (nước); 176,73 µg/mL (ethanol) và 158,01 µg/mL (methanol).
#α-amylase #α-glucosidase #Kháng oxy hóa #DPPH #Cây lộc vừng
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, SỰ ĐỀ KHÁNG KHÁNG SINH VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ VIÊM PHỔI BỆNH VIỆN DO VI KHUẨN ACINETOBACTER BAUMANNII TẠI KHOA HỒI SỨC TÍCH CỰC - CHỐNG ĐỘC BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG CẦN THƠ
Đặt vấn đề: sự đề kháng kháng sinh do Acinetobacter baumannii ngày càng tăng là thách thức lớn trong thực hành lâm sàng. Thất bại trong điều trị viêm phổi bệnh viện (VPBV) do A.baumannii chiếm tỉ lệ cao từ 54,2% đến 89,9% ở nhiều bệnh viện vì tính đa kháng kháng sinh. Mục tiêu: mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, sự đề kháng kháng sinh và đánh giá kết quả điều trị bệnh nhân VPBV do A.baumannii. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 61 bệnh nhân VPBV do A.baumannii tại Khoa Hồi sức tích cực – Chống độc bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ năm 2018-2019, thiết kế nghiên cứu theo mô tả cắt ngang. Kết quả: có 41% VPBV khởi phát sớm, các biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng là sốt 100%, suy hô hấp 100%. Kháng sinh kinh nghiệm thường được sử dụng là nhóm carbapenem 62,3% và quinolon 60,7%; A.baumannii kháng 100% với ticarcillin, ticarcillin/acid clavulanic, cefazolin; imipenem 98,4%, meropenem 97%, cefepim 98,4%, levofloxacin 93,4%, ciprofloxacin 95,1%, chưa ghi nhận trường hợp nào kháng với colistin. Kết quả có 29,5% bệnh nhân khỏi bệnh, 70,5% bệnh nhân thất bại với điều trị vì tử vong hoặc không thể cai máy thở. Kết luận: A.baumannii đề kháng cao với nhiều loại kháng sinh thông dụng ngoại trừ colistin và có tỉ lệ tử vong cao.
#lâm sàng #cận lâm sàng #viêm phổi bệnh viện #Acinetobacter baumannii #đề kháng kháng sinh
Khả năng kháng oxy hóa và bảo vệ tế bào MIN6 tụy tạng của dịch trích methanol lá xoài non (Mangifera indica L.)
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Tập 54 Số 7 - Trang 85-93 - 2018
Khả năng bảo vệ tế bào β tụy tạng khỏi sự phá hủy bởi stress mạng nội chất của dịch trích lá xoài non (Mangifera indica L.) được thực hiện in vitro trên tế bào MIN6. Sự chết của tế bào MIN6 được gây ra do tunicamycin ở nồng độ 5 µg/mL, sau 24 giờ ủ ở điều kiện 37oC và 5% CO2. Khả năng gây độc đối với tế bào MIN6 của dịch trích lá xoài non (LXN) được khảo sát ở nồng độ từ 50 đến 500 µg/mL ở điều kiện ủ 37oC và 5% CO2 trong 48 giờ. Khả năng bảo vệ tế bào MIN6 của dịch trích LXN cũng được khảo sát. Kết quả khảo sát cho thấy, ở các nồng độ khảo sát LXN không gây độc tế bào MIN6 trong 48 giờ. Nồng độ dịch trích LXN có khả năng bảo vệ tế bào MIN6 khỏi sự chết bởi stress mạng nội chất tốt nhất là 500 µg/mL. Bên cạnh đó, thí nghiệm đã chứng minh dịch trích LXN có hiệu quả kháng oxy hóa. Kết quả khảo sát khả năng kháng oxy hóa bằng phương pháp trung hòa gốc tự do 2,2-diphenyl-1-picrylhydrazyl (DPPH), khử sắt (RP) và 2, 2'-azinobis-(3-ethylbenzothiazoline-6-sulfonic acid) (ABTS•+) có giá trị EC50 lần lượt là 27,64± 0,88; 12,11 ± 1,15 và 45,7± 0,50 µg/mL. Kết quả chứng minh, LXN có tiềm năng hỗ trợ điều trị bệnh đái tháo đường theo cơ chế kháng oxy hóa và bảo vệ tế bào β của tụy tạng khỏi sự chết bởi stress mạng nội chất.
#Bệnh đái tháo đường #Kháng oxy hóa #lá Xoài non #Mangifera indica L #stress mạng nội chất #tế bào MIN6
KHẢO SÁT THỰC TRẠNG SỬ DỤNG KHÁNG SINH CEFUROXIM TẠI KHOA SẢN NHIỄM KHUẨN BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG NĂM 2019
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 498 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm tiêu thụ và sử dụng cefuroxim tại khoa Sản nhiễm khuẩn bệnh viện Phụ sản Trung ương (PSTW) năm 2019. Phương pháp: Đặc điểm tiêu thụ được đánh giá thông qua chỉ số DDD/100 ngày nằm viện và đặc điểm sử dụng được khảo sát trên 179 bệnh án nội trú của bệnh nhân được chỉ định cefuroxim trong thời gian nằm viện tại khoa Sản nhiễm khuẩn từ tháng 1 đến tháng 8/2019. Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang. Kết quả: Về đặc điểm tiêu thụ: cefuroxim có mức tiêu thụ xếp thứ 4 tại khoa Sản nhiễm khuẩn với 7,97 DDD/100 ngày nằm viện. Về đặc điểm sử dụng cefuroxim: các bệnh lý viêm vùng chậu (viêm niêm mạc tử cung, viêm/áp xe phần phụ), áp xe vú là những bệnh nhiễm khuẩn hay gặp nhất; phác đồ cefuroxim được sử dụng là phác đồ ban đầu trong hầu hết các trường hợp. Kết luận: Mức tiêu thụ cefuroxim đứng hàng thứ 4 tại khoa Sản nhiễm khuẩn trong năm 2019. Đa số các phác đồ cefuroxim đãđược sử dụng không có trong các hướng dẫn điều trị. Liều dùng của cefuroxim nên được cân nhắc lại.
#cefuroxim #sản phụ khoa #sử dụng kháng sinh
Thành phần hoá học, khả năng kháng oxy hoá, kháng viêm, ức chế ɑ-amylase và ɑ-glucosidase của tinh dầu húng quế (Ocimum basilicum L.), được trồng tại Đắk Lắk
Tinh dầu húng quế chứa nhiều thành phần khác nhau như các hợp chất terpenoid, phenol, sterol với các hoạt tính sinh học đa dạng (kháng oxy hóa, kháng ung thư, kháng viêm, bền thành mạch, ức chế hình thành cục máu đông, ức chế vi sinh vật). Tuy nhiên, các hoạt tính này phụ thuộc nhiều vào thành phần các hợp chất có trong tinh dầu húng quế. Trong nghiên cứu này, cây húng quế có hoa được sử dụng làm nguồn nguyên liệu để tách tinh dầu ở các nồng độ NaCl từ 0 - 10%. Hàm lượng estragole trong tinh dầu húng quế thu được cao nhất ở điều kiện chưng cất với NaCl 4 - 8%. Khả năng dập tắt các gốc tự do (DPPH* và ABTS*+), kháng viêm (bảo vệ albumin không bị biến tính và ức chế xanthine oxidase), ức chế ɑ-amylase và ɑ-glucosidase của tinh dầu húng quế được chưng cất với NaCl cao hơn so với không có NaCl với các thử nghiệm trong nghiên cứu này.
#kháng oxy hóa #kháng viêm #tinh dầu húng quế #ức chế xanthine oxidase #ức chế ɑ-amylase #ức chế ɑ-glucosidase
Đánh giá tác động gây độc tế bào ung thư biểu mô gan và hoạt tính kháng oxi hoá của cao chiết lá cúc tần Pluchea indica (L.) Less.
Cây Cúc tần (Pluchea indica (L.) Less) là một loài thảo mộc phân bố phổ biến tại khu vực Đông Nam Á. Đây là loài dược liệu được sử dụng nhiều trong y học dân tộc và nổi tiếng với tác dụng điều trị tiểu đường. Mặc dù nhiều nghiên cứu khoa học được tiến hành, song các nghiên cứu về hoạt tính kháng ung thư còn khá hạn chế bao gồm cả ung thư gan. Trong nghiên cứu này, độc tính của cao chiết từ lá cúc tần trên tế bào ung thư biểu mô gan được đánh giá bằng phương pháp MTT. Khả năng kháng oxi hoá của cao chiết được khảo sát bằng thí nghiệm DPPH. Kết quả cho thấy, cao chiết Cúc tần có độc tính cao trên tế bào ung thư biểu mô gan thử nghiệm bao gồm HepG2 (IC50 = 19,68 ± 2,27 (µg/mL)) và HCC-J5 (IC50 = 20,37 ± 1,29 (µg/mL)). Cúc tần cũng thể hiện khả năng trung hòa gốc DPPH (EC50 = 1027 ± 69,65 (µg/mL)).
#Pluchea indica #ung thư biểu mô gan #HepG2 #HCC-J5 #DPPH
Khảo sát hàm lượng polyphenol, saponin, hoạt tính kháng oxy hóa và kháng khuẩn từ cao chiết bẹ và củ rễ cây Môn ngứa (Colocasia esculenta)
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp - Tập 2 Số 3 - Trang 831-838 - 2018
Các đặc tính dược liệu của cây Môn ngứa (Colocasia esculenta) ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa được nghiên cứu nhiều. Việc khảo sát hàm lượng polyphenol, saponin, khả năng kháng oxy hóa và khả năng kháng khuẩn của cao chiết từ bẹ và củ rễ Colocasia esculenta, đặc biệt là trên các loài vi khuẩn phổ biến sẽ mở rộng hướng đi cho ngành dược. Cao chiết từ bẹ và củ rễ của cây Môn ngứa (Colocasia esculenta) được ly trích trong dung môi ethanol 96o có kết hợp sóng siêu âm. Hiệu suất ly trích ở nghiệm thức bẹ (BE96S) đạt 3,1 % trong khi đó nghiệm thức củ rễ (CE96S) chỉ đạt 2,8 %. Qua kết quả nghiên cứu cho thấy hàm lượng polyphenol và saponin tổng của nghiệm thức CE96S (18,1 mg/g và 36,5 mg/g) cao hơn nghiệm thức BE96S (3,07 mg/g và 29,3 mg/g). Xét về khả năng chống oxy hóa H2O2, DPPH và khử ion Fe3+ thì nghiệm thức CE96S (254,74 μg/mL, 19 μg/mL, 136,38 μg/mL) cho kết quả tốt hơn nghiệm thức BE96S (1142 μg/mL, 1947 μg/mL và 450,85 μg/mL). Xét về khả năng kháng khuẩn, cả 2 nghiệm thức đều có khả năng kháng khuẩn, trên 2 loài vi khuẩn E. coli và Staphylococcus sp. ABSTRACT The medicinal properties of Mon Ngua (Colocasia esculenta) have not been fully exploited in Vietnam. Survey of polyphenols, saponins, antioxidant and antibacterial activity of wild taro shoot and tuber, especially, common bacterial species which will expand the direction of the pharmaceutical industry. Wild Taro shoots and tubers (Colocasia esculenta) are extracted in 96o ethanol solvent and combined with ultrasound. The yield of shoots extraction (BE96S) was 3.1%, while the tubers (CE96S) was 2.8%. The results showed that the total polyphenol and saponin contents of CE96S treatment (18,1 mg GAE/g and 36.5 mg/g) were higher than the results of BE96S (3.07 mg GAE/g and 29.3 mg/g). The antioxidant capacity (H2O2, DPPH and deionized Fe3+) of the CE96S treatment (254.74 μg/mL, 19 μg/mL, 136.38 μg/mL) gave better results than the BE96S (1142 μg/mL, 1947 μg/mL, and 450.85 μg/mL). Both treatments showed potent ihibitory effect against Escherichia coli and Staphylococcus sp. Bacterial strains.
#Cao chiết cây Môn ngứa (Colocasia esculenta) #Cao chiết #Kháng oxy hóa #Kháng khuẩn #Antioxidant #Antimicrobial #Wild taro extract (Colocasia esculenta) #Extract
Tổng hợp và chuyển hóa 2-(acetamido)-3-(4-chlorophenyl)acrylohydrazide
800x600 2-(Acetamido)-3-(4-chlorophenyl)acrylohydrazide ( 4 ) đã được tổng hợp từ 4-chlorobenzaldehyde ( 1 ) và acetylglycine ( 2 ) qua hợp chất trung gian 4-(4-chlorobenzylidene)-2-methyloxazol-5(4H)-one ( 3 ) . Ngưng tụ ( 4 ) với các aldehyde thơm khác nhau đã tạo thành 07 hợp chất hydrazide N-thế ( 5a-g ). Cấu trúc của các chất tổng hợp được đã được xác nhận qua phổ IR, phổ NMR và MS của chúng. Ở nồng độ đến 50 μg/ml, các hidrazide N-thế ( 5a-g ) đều không thể hiện hoạt tính kháng oxi hóa. Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-priority:99; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; mso-para-margin:0cm; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Calibri","sans-serif";}
#4-(chlorobenzylidene)-2-methyloxazol-5(4H)-one #2-(acetamido)-3-(4-chlorophenyl)acrylohydrazide #hoạt tính kháng oxi hóa
Tổng số: 62   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7